Thiên hoàng thời kỳ Heisei

Hoạt động và ảnh hưởng của Thiên hoàng Nhật Bản trong thời kỳ cận hiện đại

Sau khi kết thúc giai đoạn phong kiến, Nhật Bản chuyển mình bước sang giai đoạn cận hiện đại với mốc đánh dấu là sự sụp đổ của chế độ Mạc phủ và sự thành công trong cuộc cải cách Duy tân năm 1868. Từ đó cho đến nay, mặc dù chế độ Mạc phủ gắn với sự chuyên quyền của Shogun đã sụp đổ, một chính quyền mới ra đời do Thiên hoàng đứng đầu, nhưng thực chất, thực quyền đều do một thế lực khác nắm giữ mà không phải Thiên hoàng. Tuy vậy, mức độ can thiệp và ảnh hưởng của Thiên hoàng vào chính trị có sự khác nhau giữa hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Bởi lẽ, hai thời kỳ này có sự khác nhau về bối cảnh lịch sử, nhân tố bên ngoài tác động vào, đặc biệt, năm 1945 là sự kiện Nhật Bản đại bại trong chiến tranh thế giới thứ hai và sự ra đời của Hiến pháp mới với nhiều quy định, quy tắc khác hoàn toàn so với Hiến pháp Minh Trị ra đời trước đó (năm 1889), trong đó có các quy định về quyền hành của Thiên hoàng.

 

1. Giai đoạn từ 1868 – 1945

  • Shogun trao trả lại quyền hành cho Thiên hoàng

Năm 1867, trước thế lực của các công quốc Choshu, Satsuma cùng với Thiên hoàng, Shogun Keiki đã trao trả lại quyền hành cho Thiên hoàng Mutsuhito, lúc lên ngôi mới chỉ 15 tuổi. Sự kiện này đã chấm dứt quyền lực của Shogun dòng họ Tokugawa kéo dài suốt 265 năm, đưa lịch sử Nhật Bản bước sang một trang mới. Ngày 3/1/1868, Thiên hoàng Mutsuhito đã ra lệnh truất quyền Shogun và thành lập một chính phủ mới.

Như vậy, một chính quyền mới đã được thành lập do Thiên hoàng đứng đầu.

  • Hoạt động

Trong giai đoạn này có sự nắm quyền của 3 Thiên hoàng: Mutsuhito, Yoshihito và Hirohito, trong đó, Thiên hoàng Mutsuhito (Minh Trị) là được chú ý nhất và được xem là người đặt nền móng cho sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Thiên hoàng Minh Trị thực tế đã tham gia tích cực vào việc thảo luận chính sách với những người lãnh đạo nhà nước vốn là những người đã đem lại cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân. Nói về khả năng chính trị, theo “10 đại hoàng đế thế giới” có viết: “Tân Thiên hoàng Mutsuhito chỉ là một đứa trẻ, suốt ngày cứ chơi đùa với các cung nữ một cách vô ý thức. Ông hoàn toàn không có năng lực và kinh nghiệm chấp chính, chỉ làm một vị vua bù nhìn, đóng dấu và ký tên vào những văn kiện đã được soạn thảo sẵn”. Tuy nhiên, trong Tạp chí “Nhà quản lý” (số 27 tháng 09/2005) có ghi nhận khác: “Hoàng tử Mutsohito đã sớm nhận thấy thực trạng suy kiệt, bi đát của đất nước cũng như nhận thấy nguy cơ của chủ nghĩa thực dân phương Tây đang ngày càng hiển hiện, đe dọa nền độc lập dân tộc. Trước tình hình đó, ông cùng với những người theo chủ nghĩa dân tộc cấp tiến quyết tâm đưa đất Nhật trở nên hùng mạnh. Biểu hiện đầu tiên của quyết tâm này là ngay sau khi lên ngôi, Mutsohito đã lấy niên hiệu là Minh Trị (Meiji – tức nền chính trị sáng suốt)”.

Lúc đầu, ông không trực tiếp điều hành triều chính mà do các triều thần thuộc phái chống Mạc phủ Tokugawa trước đây nắm thực quyền. Họ dùng danh nghĩa của Thiên hoàng để thực thi các cuộc cải cách theo đường lối tư bản chủ nghĩa.

Sau một thời gian, do một số biến đổi về chính trị trong nước, Thiên hoàng Minh Trị đã có sự tham gia đáng kể vào chính trị.

Điểm nổi bật trong giai đoạn này là sự ra đời của Hiến pháp Đại Nhật Bản Đế quốc (大日本帝国憲法 – Dainihon teikoku kenpou) vào năm 1889, sau một thời gian cử một phái đoàn sang châu Âu để khảo sát và soạn thảo Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội Nhật gồm 2 viện: Viện Quý tộc và Viện bình dân. Mặt khác, trong Hiến pháp cũng nêu rõ quyền hạn của Thiên hoàng (từ điều 1 – 17). Thiên hoàng là người có quyền tối thượng, là một vị thiên hoàng “vạn thế nhất hệ cai trị”, là nguyên thủ quốc gia, có quyền nắm bao quát tất cả, cụ thể: Thiên hoàng quy định mọi cơ cấu và tổ chức hành chính, bổ nhiệm cũng như bãi bỏ các văn quan và võ quan; hoạch định chính sách quốc phòng; quyền chỉ huy quân sự, thống lĩnh quân đội, chỉ đạo, sắp xếp quân đội, hải quân; tuyên chiến hay giảng hòa cũng như kết ước với nước khác; điều chỉnh và phân bổ ngân sách,…Qua Hiến pháp, có thể thấy mọi quyền lực đều tập trung trong tay Thiên hoàng, giúp cho Thiên hoàng tập trung toàn bộ quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vào bàn tay sắt của mình. Tuy nhiên, Thiên hoàng buộc phải dựa vào các điều luật ghi trong Hiến pháp để thực thi đại quyền của mình, và khi Thiên hoàng lấy danh nghĩa của mình để ban bố các sắc lệnh về pháp luật, quốc vụ thì “phải được quốc vụ đại thần cùng ký tên”. Như vậy bản Hiến pháp 1889 cũng đã hạn chế ảnh hưởng của Thiên hoàng trong việc triều chính, góp phần giúp Nhật Bản chuyển dần từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến, chính trị đảng phái của giai cấp tư sản.

Trong giai đoạn này, Thiên hoàng Minh Trị còn thực hiện các hoạt động bành trướng lãnh thổ, mở rộng xâm chiếm lãnh thổ bên ngoài, đó là các cuộc xâm lược: Chiến tranh Đài Loan (1874), Nhật – Trung (1894 – 1895), Nhật – Nga (1904 – 1905).

Tuy nhiên, những người kế vị sau ông đã kém tích cực hơn, nói cách khác, sự ảnh hưởng đến chính trị là rất ít. Đó là Thiên hoàng Yoshihito (Đại chính), do sức khỏe yếu và một số vấn đề về thần kinh nên ông ít tham gia vào việc triều chính cũng như rất ít xuất hiện trước công chúng.

Tiếp sau đó là Thiên hoàng Hirohito (Chiêu Hòa), quyền lực trong tay cũng có tính chất tượng trưng hơn là thực quyền. So với Thiên hoàng Yoshihito, ông tham gia nhiều hơn vào đời sống chính trị. Quanh ông là bảy cận thần hướng dẫn và hoạch định chính sách đường lối, gây ảnh hưởng mạnh mẽ với ông. Ngay từ khi bắt đầu thời kì trị vì của mình, Hirohito tránh đương đầu với bất đồng về tư tưởng quốc phòng đang tiếp diễn trong lực lượng hải quân.

Như vậy, trong giai đoạn này, Thiên hoàng cũng có tham gia thực hiện một số chính sách, hoạt động liên quan đến lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên, những hoạt động đó rất ít, hoặc có khi chúng chỉ là cái bề ngoài, bởi đằng sau Thiên hoàng là cả một thế lực khác– đó là Genro (元老 – Nguyên Lão), là một nhóm những quý tộc, những người có công chính trong việc lật đổ chính quyền Mạc phủ, và sau đó dần nhượng lại quyền lực cho các đảng phái đối lập. Họ nắm trong tay thực quyền, quyết định mọi chính sách quan trọng. Do đó, mặc dù trong Hiến pháp 1889 quy định Thiên hoàng nắm quyền tối thượng, quyền bao quát mọi lĩnh vực, nhưng trong thực tế, Thiên hoàng chủ yếu chỉ là người kiểm định, đóng dấu các chính sách và đưa nó vào đời sống của người dân. Nhận thức được điều này nên các nhà lãnh đạo Minh Trị đã chọn mô hình Hiến pháp Đức vì mô hình này đề cao địa vị của Thiên hoàng.

  • Ảnh hưởng

Qua các hoạt động trên, có thể thấy nhìn chung Thiên hoàng cũng có một số ảnh hưởng nhất định về mặt chính trị, trong đó người có ảnh hưởng đến chính trị mạnh mẽ nhất là Thiên hoàng Minh Trị. Xét trong bản Hiến pháp Minh Trị, quyền lực của Thiên hoàng là vô cùng to lớn trên mọi lĩnh vực, nhưng trên thực tế, sức ảnh hưởng đến chính trị là không nhiều (trừ Thiên hoàng Minh Trị). Nhìn chung, nói về ảnh hưởng có thể kể đến 2 điểm cơ bản sau:

Xét về khía cạnh ảnh hưởng đến chính trị, thứ nhất, sự tồn tại của Thiên hoàng giúp duy trì ổn định địa vị thống trị của thế lực nắm quyền thực sự – cụ thể là chính phủ. Hay nói cách khác, Thiên hoàng tạo nên sự ổn định trong bộ máy cai trị của Nhật, bởi Thiên hoàng là chỗ dựa vững chắc cho họ.

Thứ hai, Thiên hoàng là chất kết dính tự nhiên mọi thành phần trong xã hội Nhật Bản tạo thành một thể ổn định, thống nhất. Nhờ vậy, khi cần thực thi một chính sách mà Thiên hoàng đưa ra (đằng sau là chính phủ), với niềm tin, sự tôn sùng Thiên hoàng, tất cả mọi người đều đồng loạt thực hiện mà không gây xáo trộn trật tự, bất ổn an ninh chính trị. Nói cách khác, đó là việc thống trị bằng niềm tin mà ở đó, sự phục tùng của những người bị trị là tự nguyện chứ không phải bắt buộc, từ đó tạo nên một xã hội ổn định, trật tự.

Cụ thể, bởi có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với người dân nên Thiên hoàng đã góp phần quan trọng trong quá trình phục hưng, phát triển kinh tế, đưa Nhật Bản từ một nước phong kiến lạc hậu thành một quốc gia tiên tiến, bắt kịp với nền kinh tế thế giới. Biểu tượng Thiên hoàng giúp cho những nhà lãnh đạo trong chính phủ thực hiện kế hoạch hiện đại hóa đất nước (chủ yếu là các quý tộc Satsuma, Choshu, Tosa, Hizen). Mặc dù không trực tiếp tạo ra những thành tựu đó nhưng có thể nói, nếu không có sự trị vì của Thiên hoàng trên cương vị là người đứng đầu đế quốc Nhật Bản thì chắc hẳn sẽ không thể có những thành tựu to lớn như vậy. Bởi để đạt được những thành tựu đó trước hết phải có sự thống nhất và đồng lòng của toàn dân, mà Thiên hoàng chính là người tập hợp tạo nên sự thống nhất ấy (vai trò gián tiếp). Chẳng hạn, trong cuộc cải cách ruộng đất: bằng sự uy tín của mình, Thiên hoàng đã làm cho các lãnh chúa trả lại quyền quản lí đất đai cho Thiên hoàng nhưng thực chất là trả lại cho chính phủ của những thế lực có tư tưởng cải cách. Từ đó tạo nên sự thống nhất về mặt lãnh thổ cũng như về quyền lực trong tay chính quyền trung ương. Ví dụ thứ hai, trong công cuộc công nghiệp hóa và văn minh hóa nước Nhật, Thiên hoàng trở thành “người quảng cáo, người mẫu” để người dân bắt chước làm theo. Trong đó, việc mặc quần áo phương Tây là một ví dụ điển hình, hay là sau khi có sự xuất hiện của Thiên hoàng ở trên tàu thì việc đi tàu cũng trở nên phổ biến hơn.

Tóm lại, Thiên hoàng trong giai đoạn này tuy không có ảnh hưởng nhiều về mặt chính trị nhưng lại ảnh hưởng mạnh mẽ về mặt xã hội. Thiên hoàng không chỉ góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa ở Nhật Bản mà còn là người hợp pháp hóa các chủ trương phát triển của những người trong chính phủ. Tất cả những gì họ làm đều dưới danh nghĩa là thực hiện theo ý của Thiên hoàng, qua đó mà địa vị thống trị cũng được đảm bảo, ổn định hơn. Thiên hoàng là người kết dính tất cả người dân vào một khối thống nhất, đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự thành công trong việc thực hiện các chính sách, các cuộc cải cách, trong đó nổi bật là công cuộc cải cách thời Minh Trị (1866 – 1869).

2. Giai đoạn từ 1945 – nay

Vào khoảng đầu năm 1945, sau bại trận trong trận chiến Leyte, Thiên hoàng Hirohito đã tiến hành rất nhiều các cuộc gặp riêng với những quan chức cấp cao để cân nhắc bước tiến tiếp theo cho cuộc chiến đang tiếp diễn. Chỉ có cựu Thủ tướng Fumimaro Konoe, với lý do e ngại một cuộc cách mạng cộng sản đã khuyên Nhật hoàng nên ngừng cuộc chiến lại, tuy nhiên Thiên hoàng Hirohito đã bác bỏ lời khuyên của Konoe.

Vào tháng 4/1945, Liên Xô tuyên bố sẽ không gia hạn thỏa thuận trung lập; tháng 5/1945 đồng minh của Nhật là Đức đã đầu hàng. Tháng 6/1945, Nội các họp bàn lại chiến thuật và vẫn cương quyết chiến đấu đến cuối cùng.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Kouichi Kido đã chuẩn bị một bản thảo tóm tắ lại tình hình quân sự đang lâm vào thế bí lúc bấy giờ và đề xuất cách giải quyết thương lương. Một số nhà cực đoan Nhật lúc bấy giờ đã kêu gọi một cuộc tự sát tập thể dựa trên vụ “47 ronin”, thà chết chứ không chịu ô uế thanh danh. Khoảng giữa tháng 6/1945, Nội các đã đồng ý tiếp cận Liên Xô với tư cách là bên hào giải để tiến đến thương lượng đầu hàng. Vào ngày 22/6/1945, Thiên hoàng đã có cuộc gặp với các Bộ trưởng, tuyên bố rằng ông muốn một kế hoạch chắc chắn cho việc đình chiến, không bị kìm hãm bởi các chính sách đương thời, được nhanh chóng nghiên cứu và nỗ lực tiến hành. Trong bối cảnh bộ phân cực đoan luôn đe dọa sẽ tiến hành đảo chính hay thực hiện các hành vi bạo lực khác, cố gắng thương lượng hòa giải thông qua Liên Xô đã không thu lại kết quả gì. Vào ngày 26/7/1945, quân Đồng minh đưa ra Tuyên bố Potsdam yêu cầu sự đầu hàng vô điều kiện từ phía Nhật. Hội đồng chính phủ Nhật Bản đã cân nhắc lựa chọn này và đê nghị rằng Thiên hoàng chỉ chấp nhận đầu hàng nếu được thỏa mãn ít nhất một trong số bốn điều kiện mà phía Nhật đưa ra, trong đó bao gồm cả việc đảm bảo vị trí Thiên hoàng vẫn tiếp tục không bị loại bỏ khỏi xã hội Nhật Bản. Thiên hoàng đã quyết định không chịu đầu hàng.

Vào ngày 10/8/1945, sau hai vụ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, đi kèm đó là lời tuyên chiến từ phía Liên Xô, Thiên hoàng Hirohito đã đưa ra chỉ dẫn cho Nội các soạn thảo Nghị định chấm dứt chiến tranh, tuyên bố rằng không thỏa hiệp với bất cứ yêu câu nào đối nghịch lại với vị trí nhà cầm quyền tối cao của Thiên hoàng.

Sau đó 2 ngày, Thiên hoàng thông báo cho Hoàng gia về quyết định đầu hàng của mình. Vào ngày 14/8, chính phủ Suuki đã thông báo đến quân Đồng mình về việc chấp thuận tuyên bố Potsdam. Ngay ngày sau đó, bản thu âm diễn văn đầu hàng của Thiên hoàng đã được phát sóng ra toàn quốc qua đài phát thanh, ra hiệu sự đầu hàng vô điều kiện từ phía quân đội Nhật Bản. Một bộ phận quân đội đã không đồng ý với nước đi này của Thiên hoàng và đã tổ chức một cuộc đảo chính, nhưng đã nhanh chóng bị dập tắt bởi chính Thiên hoàng.

Đứng trước nhiều cáo buộc về tội ác chiến tranh đã gây ra trong cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Thiên hoàng Hirohito đã không bị xét xử, tuy nhiên bị buội phải chối bỏ nhận định không chính thức cho rằng Thiên hoàng Nhật Bản là một vị thánh sống, tuy nhiên, về phía Thiên hoàng Hirohito, ông vẫn cho rằng Nhật hoàng nên được coi là con cháu của thần thánh. Vào tháng 12/1945, Thiên hoàng Hirohito đã nói: “Có thể cho rằng việc người Nhật là hậu duệ của thần thánh là một quan niệm sai lầm, nhưng không thể tha thứ cho ai cho rằng quan niệm Thiên hoàng là hậu duệ của thánh thần chỉ là một ý tưởng hão huyền.” Tuy nhiên, đến năm 1946, Thiên hoàng buộc phải ký thông qua bản Hiến pháp do Mỹ soạn ra, chấp nhận đưa vị trí Thiên hoàng trong xã hội Nhật thành một vị trí mang ý nghĩ biểu tượng nhiều hơn, không còn nắm thực quyền như trước.

Trong phần đời còn lại, Thiên hoàng Hirohito thực hiện những nghĩa vụ thuộc về người đứng đầu một nhà nước hiến pháp. Thiên hoàng cùng Hoàng gia luôn giữ hình ảnh trước công chúng, đồng thời cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lại hình ảnh ngoại giao của Nhật Bản với những chuyến du thăm các nhà lãnh đạo chính trị nước ngoài như Nữ hoàng Anh Elizabeth II (1971) và Tổng thống Mỹ Gerald Ford (1975).

Thiên hoàng Hirohito qua đời vào ngày 7/1/1989, kết thúc thời Showa, truyền ngôi lại cho con trai là Thiên hoàng Akihito, mở ra triều đại Heisei (Bình Thành).

Cuối tháng 4/2019, Thiên hoàng Akihito thoái vị và Thái tử Naruhito đăng quang, trở thàn Nhật hoàng thứ 126, chấm dứt triều đại Heisei và mở ra thời kỳ mới với niên hiệu Reiwa (Lệnh Hòa).

Như vậy, tính từ năm 1945 cho đến nay, các hoạt động của Thiên hoàng, mà chủ yếu là Thiên hoàng Hirohito gây ảnh hưởng đến chính trị Nhật Bản chủ yếu rơi vào những năm sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, với quyết định đầu hàng vô điều kiện, chấp nhận bại trận, đồng thời ký kết Hiệp định Potsdam cũng như bản Hiến pháp năm 1946 do phía Mỹ soạn ra. Những hoạt động này đã có sức ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ nền chính trị Nhật Bản, thể hiện rõ ràng nhất ở vai trò Thiên hoàng trong nền chính trị, xã hội Nhật, từ vị trí thủ lĩnh tối cao cho đến nay chỉ còn là hình ảnh biểu trưng cho quốc gia. Hiện nay Thiên hoàng không thực sự nắm giữ quyền lực mà chỉ mang tính là một nhân vật đại diện cho xã hội Nhật.

 

Chú ý: Cấm được sao chép dưới mọi hình thức hoặc khi trích dẫn phải ghi rõ nguồn.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *