Sự phát triển của hệ chữ Kana trong bảng chữ cái tiếng Nhật

Sự phát triển của hệ chữ Kana trong bảng chữ cái tiếng Nhật

Từ thế kỷ 10, các tác phẩm văn học Nhật Bản sử dụng chữ Kana như phương tiện truyền đạt chính đã khai hoa rực rỡ. Loại chữ đầu tiên xuất hiện từ thời Nara có tên gọi là Manyogana (万葉仮名 – Vạn Diệp giả danh) hay Magana (真仮名 – Chân giả danh), được dùng để diễn đạt tình cảm của người Nhật, với tập thơ Manyoshu là một ví dụ điển hình. Đến thời Heian, bảng chữ Kana đã được hình thành gồm hai loại: hiragana và katakana.

 Chữ hiragana (bình giả danh – 平がな), được hình thành từ lối viết thảo giản lược hóa của chữ Magana. Khi viết nhanh chữ magana thì tốc độ viết làm cho chữ tháu đi và biến dạng thành sougana (草仮名 – Thảo giả danh), là chữ viết thảo có khuynh hướng giản lược hóa, cho đến khi hình thái chữ thay đổi đến độ không còn nhận ra mặt chữ nữa, đó chính là hiragana. Chữ hiragana được dùng nhiều trong văn học. Khi mới được tạo ra, chữ hiragana không được mọi người chấp nhận. Nhiều người cảm thấy chữ Hán mới là ngôn ngữ của những người có học. Trước kia, ở Nhật Bản, chữ Hán dành cho quý tộc, những người có địa vị xã hội cao như vua chúa, quan chức, và chủ yếu là đàn ông viết nên được gọi là otokode (男手 – nam thủ). Trong khi đó, chữ hiragana chủ yếu được người phụ nữ sử dụng, nên còn được gọi là onnade (女手 – nữ thủ). Có hai cách sắp xếp thứ tự hiragana chính: kiểu cũ là iroha (いろは) và kiểu phổ biến hiện nay là gojuuon (五十音). Về kiểu iroha, tương truyền, vào thế kỷ 10, người đặt ra 47 âm cơ bản của tiếng Nhật (sau là 48 âm) là Hoằng pháp đại sư Kuukai (空海 – 774 – 835) qua một bài đạo ca được gọi là Iroha uta (いろは歌). Đây là một bản thu gọn cách nói đương thời, bởi tiếng Nhật trước kia có rất nhiều âm và cách đọc. Hiện nay, hiragana được sắp xếp chủ yếu theo kiểu gojuuon, chính là bảng chữ âm tiết tiếng Nhật.

Khác với hiragana, chữ katakana (phiến giả danh – 片かな), là một bộ phận của chữ Manyogana giản lược hóa, được các nhà sư sử dụng vào việc ghi chép cách đọc kinh Phật Hán tự.

Sự phát triển của hệ chữ Kana trong bảng chữ cái tiếng Nhật

Chữ Hiragana và Katakana hình thành từ chữ Manyogana

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hiragana; https://vi.wikipedia.org/wiki/Katakana)

 

Lúc đầu, việc lựa chọn chữ Hán để giản hóa thành chữ Kana rất tùy tiện, nhiều khi một âm tiết có tới mấy kí hiệu. Và phải trải qua hơn một thế kỷ sau, hiragana và katakana mới được chuẩn hóa. Với sự phổ biến của hệ thống chữ Kana, giờ đây người ta có thể viết một bài thơ Nhật Bản với vài nét hoa mỹ mà xưa kia vẫn phải viết một chữ có nhiều nét cho mỗi âm tiếng mẹ đẻ; hoặc cũng có thể ghi lên giấy âm của từng từ Nhật Bản và có thể viết tên tiếng Nhật của một vật mà người ta không biết biểu tượng bằng tiếng Trung Quốc. Như vậy, nhờ việc sáng tạo ra chữ Kana, người Nhật có thể truyền đạt một cách sinh động những tâm tư, tình cảm vốn có của mình, từ đó đã góp phần đẩy nhanh đà tiến của văn học Nhật.

 

Chú ý: Cấm được sao chép dưới mọi hình thức hoặc khi trích dẫn phải ghi rõ nguồn.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *